Mối duyên ngẫu nhiên giữa anh sinh viên kiến trúc đẹp trai với “cô học trò ngoan” Cha tôi sinh năm 1926 , là chàng trai người Huế , làng Lang Xá , huyện Phú Vang. Ông nội Ngô Viết Quang là một giáo sư trường kỹ thuật Huế và cũng là một nhà Nho học thâm uyên. Thuở thơ , cha sống rất nghèo phải ở với ông nội cũng là một kiến trúc sư thành thạo để học chữ Nho. Mẫu thân tôi , bà Võ Thị Cơ xưa kia vốn nổi danh là mỹ nữ người đẹp nết đất Đà Lạt. Mẫu thân sinh ra trong một gia đình khá giả và có học hành. Chuyện tơ duyên giữa
cha mẹ tôi quả thực là một mối uyên vợ chồng hết mực ngẫu nhiên. Thực thế , mẹ tôi là người đi hàng đầu cha tôi gặp tại Đà Lạt để hỏi đường khi hành lí từ Huế vào để theo học trường Cao đẳng kiến trúc Đà Lạt. Thật tình cờ sau thời gian ấy , ông ngoại tôi nghe người quen giới thiệu về nhân cách cũng như tài học của cha tôi nên mời về giảng dạy thêm ở nhà cho mẹ và các cậu , các dì con của ông ngoại và con của các người em của ông ngoại. Mẫu thân có dịp được gặp cha lần thứ 2 và trở nên học trò của một thầy giáo sáng dạ , điển trai. Thời đó , cha tôi là một sinh viên kiến trúc học giỏi và đẹp trai , là niềm ước mong của bao lăm cô gái rất xinh trong trường. Ban sơ , cha tôi chỉ xem mẹ tôi như em gái. Là người khá bay bướm nên quen và đi chơi với ai cha cũng về kể lể tâm sự hết cho mẹ tôi nghe. Gia đình KTS Ngô Viết Thụ Thế nhưng thời kì trôi đi , cha nhận ra mẹ tôi là người có phẩm hạnh đáng quý hơn hết. Mẫu thân ngay từ khi gặp cha đã có lòng cảm mến nhưng vì ngại ngùng luôn giữ kín trong lòng thế nên tính cách của hai người dần dần nảy nở khi cha bắt đầu Hữu ý với mẹ. Ông ngoại là nhân tình quý người tài , nên dù biết cha nghèo nhưng vẫn cùng quan điểm hoặc suy nghĩ với ai đó gả bán gái cho cha tôi. Năm 1948 , cha tôi cưới mẹ tôi , đám cưới được trong vùng cho là rất xứng đôi vì trai tài gái sắc. Sau này ông ngoại giúp cha tôi rất nhiều trong việc đi du học ở Pháp. Mẫu thân tôi muốn cha tôi không phải áy náy vì nhờ cậy gia đình vợ , nên xin nghỉ học giúp ông bà ngoại bán buôn phụ giúp thêm. Cha tôi cảm ân tình của vợ nên không dám ham chơi như các bạn đồng học tại Paris , mà dành hết thời kì vào việc học để sớm có ngày phúc đáp nghĩa tình đó. Cha tôi kể chuyện , có nhiều buổi dạ vũ tại đại học xá , âm nhạc vang dội , các bạn sinh viên như Nguyễn Quang Nhạc và Lê Văn Lắm ( sau này đều là các KTS tiếng tăm ) cử các cô đầm lên gõ cửa phòng để trêu ghẹo người “học gạo” , mà cha tôi vẫn “cắn răng” đóng cửa ngồi vẽ các đồ án , bên cạnh tấm hình mẹ tôi bồng chị lớn nhất của tôi. Mẫu thân luôn là người hiểu tính tình cha nhất. Biết rằng cha có nhân kiệt về kiến trúc , nhưng tính tình quá chính trực và nghệ sĩ , không phù hợp lắm cho vai trò một nhà chính trị , từ thời gian này , khi cha tôi được Tổng thống mời lên mặt trưởng xây dựng vào khoảng 1960. Một chức phận uy quyền và có tiền lương cao vì nắm cả cơ quan quản lý xây dựng toàn miền Nam và cơ quan xổ số kiến thiết , mẹ tôi đồng tâm với cha tôi là nên từ chối , mà chỉ tiếp tục giữ vai trò chuyên trị lãnh đạo văn phòng tham vấn kiến trúc và chỉnh trang bờ cõi cho Phủ Tổng thống cho đến năm 1975. Những năm cả nước lâm vào tình trạng có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn về kinh tế sau 1975 , chính mẹ là người lo bán buôn nuôi sống cả một gia đình 12 người , để cha tôi có khả năng rảnh tay đóng góp cho đất nước. Chính sự chết ấy của mẹ đã khiến cha tôi càng ngày càng thương yêu và hiểu một cách sâu sắc được tấm lòng cũng như tình yêu của người vợ hiền. Địa ngục ta thường nói rằng , đằng sau một người trai tráng tài danh là một người phụ nữ tót vời. Nhận xét đó đặc biệt đúng trong trường hợp của cha me tôi. Có khả năng nói , nếu không gặp mẹ tôi , người luôn tỏ thái độ đồng tình sau lưng và lo chăm nom tất cả chuyện nhà và chuyện tiêu pha tài chánh , giúp tạo mọi hoàn cảnh tốt nhất để cha tôi phát huy nhân kiệt , thì cha tôi không nhất định đã đạt được mức độ thành công vượt bực như thế. Mẫu thân tôi là người dịu dàng và có tấm lòng quan hoài đến Quần chúng. Suốt thế cục , mẹ tôi là một tấm gương của người phụ nữ Việt Nam thương yêu chết cho cả gia đình và xoành xoạch sát cánh với cha tôi trong những lúc có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn nhất. Mỗi khi hết sức cấp bách chuyện gì , cha tôi đều tâm sự nhỏ to với mẹ. Hình ảnh mà tôi nhớ nhất là những đêm cha mẹ hỏi han tin tức với nhau đến hai , ba giờ sáng , cùng chơi đàn , cùng khiêu vũ , rồi mẹ ngồi đan áo chờ cha vẽ xong mới đi ngủ… có lẽ tình yêu này quá lớn , nên sau khi mẹ mất ( năm 1977 ) , cha tôi bị sốc lớn và mặc dù lúc ấy người còn trẻ ở tuổi 51 cha vẫn ở vậy cho đến khi tạ thế ( năm 2000 ). Gia đình mẫu mực trong suốt quãng đời chung sống với nhau ,
cha mẹ tôi tợ hồ chưa bao giờ nặng lời với nhau. Mẫu thân cứ Thâm trầm hi sinh cho chồng cho con , còn cha bổn phận với gia đình và miệt mài cống hiến cho nền kiến trúc nước nhà. Tôi có tất cả 7 anh chị em và chúng ta đều thực sự hạnh phúc , kiêu hãnh khi được sinh ra và được dưỡng dục dưới bàn tay của mẹ và sự dạy dỗ của cha. Hưng thịnh bằng hữu nói với tôi rằng , thật nghịch lý khi một kiến trúc sư thiết kế nhà cho Quần chúng , lại sống trong ngôi nhà xưa cũ của
cha mẹ mình , và giữ nguyên không thay đổi một đồ vật nào. Tôi đã từng sống trong rất nhiều ngôi nhà trên thế giới , nhưng với tôi , đây mới thực sự là ngôi nhà của mình. Nó chứa đựng tất cả những đài kỷ niệm đẹp của gia đình với cha mẹ và các anh chị em tôi. Thấy ấm áp lắm. Mấy chị em tôi hồ hết đều sống xa nhà , nên tôi muốn giữ nguyên mọi bài trí trong phòng , những bức tranh của cha , những bức họa của mẹ , cả cái cây ngoài vườn… để mỗi khi ai đó về nhà , đều cảm thấy quen thuộc , như thể
cha mẹ còn đó. Tôi gặp dịp tốt được trải qua thời thơ trong một gia đình hạnh phúc , một mẫu gia đình cổ điển ở Việt Nam: cha lo chuyện nước , chuyện dân , mẹ lo chuyện nhà. Chuyện nhà của mẹ không chỉ là chuyện nấu ăn , mà là chuyện đảm trách thu xếp ổn thỏa mọi điều , từ chuyện học cho 8 đứa con , tiền ăn , rồi tiền mua căn nhà này nữa. Ví như không có mẹ , không nhất định gia đình tôi đã trải qua được những lúc sóng gió , có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn. Có một điều , cha không bao giờ ép buộc con cái phải theo nghề của mình , mà xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất việc phát triển năng khiếu theo nguyện vọng riêng của các con trong gia đình. Chính vì thế , tôi đến với kiến trúc một cách tự nhiên , không gượng gào và càng ngày càng nhiệt huyết với nó. Lúc chưa đến tuổi trưởng thành , tôi rất thích chơi Lego , xếp những mảnh ghép đủ màu thành nhiều công trình trong một thành phố , có khi dành hết diện tích của căn phòng sinh hoạt chung trên lầu của gia đình. Tặng đến bây chừ tôi còn nhớ ánh mắt nhóng nhánh niềm vui của cha nhìn tôi trong những giây lát ấy. Cha tôi có thói quen chở cả gia đình đi chơi vùng ngoại ô hoặc thăm các tỉnh miền Tây vào mỗi cuối tuần , nhưng người cũng không bao giờ quên ghé thăm Công xưởng ( trong đó có các Công xưởng Dinh độc lập và Công xưởng Đại học Nông Nghiệp Thủ Đức ). Những chuyến lữ hành đó là một phần trong những đài kỷ niệm đẹp nhất của tôi về gia đình thời thơ. Huynh đệ tôi có nhiều đài kỷ niệm chung và rất “thân” với nhau , có lẽ vì tôi và cha không những là cộng sự , mà còn có cùng ngày tháng sinh ( 17/9 ) , đều tuổi con cọp. Sau khi tốt nghiệp , tôi làm phụ tá cho cha khoảng 5 năm sau thời gian ấy xin ra làm riêng. Lúc đầu cha tôi tỏ vẻ không hài lòng , nhưng tôi bền chí giải thích là tôi sẽ tiếp phụ giúp cha một tay , nhưng vẫn muốn ra riêng vì tôi muốn Đứng riêng ra phát triển theo chí hướng của mình , thì sau đó ông vui vẻ chấp thuận. Có một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi. Theo thông lệ hàng năm , cha tôi thường đi du khảo khoảng một tháng tại các nước để nâng cao công việc. Trong chuyến đi năm 1974 , cha tôi gửi về cho Nhà ở mỗi người một tấm bưu thiếp , trong đó bưu thiếp của tôi có Khối cầu Golden Gate ở San Francisco với lời khuyên hãy ráng gắng gỏl học giỏi để một ngày nào đó có thể đi du học , đem những điều hay về giúp cho nước nhà. Năm 1998 , trong một chuyến về thăm nhà , khi hai cha con cùng nhậu và tâm tình với nhau , tôi đem tặng cha tôi tấm hình của tôi chụp tại cầu Golden Gate. Tôi cám ơn người đã dìu dắt mình trên con đường công việc và hứa sẽ tiếp bước theo con đường của cha. Cha tôi cười mà nước mắt rưng rưng. Còn mẹ , mẹ tôi đúng tức là một từ mẫu , một người luôn mỉm cười và sống có nhân với công chúng đã khiến tôi hiểu được rằng thế nào là hạnh phúc từ trong tâm. Bà rất tâm lý với từng đứa con , hàn gắn mọi xích mích của bà con chòm xóm. Người đặc biệt không bao giờ có suy nghĩ khinh thường những người nghèo hoặc thấp kém vai vế hơn mình. Chị em tôi cứ nhìn vào cha mẹ , ông bà mà lớn lên , gắng gỏl sống sao cho phải đạo. Nhờ ân đức của ông , của cha , mà rồi đây tôi lang bạt khắp thế giới , đi đến đâu cũng nhận được sự giúp rập ân cần. Chính cha đã truyền dạy một cách thiên nhiên cho tôi về lòng tin , trách nhiệm , bổn phận với núi sông. Chính mẹ đã khiến tôi tinh thần và tự tập cho mình cách sống có nhân , chan hòa trong cuộc đời. KTS Ngô Viết Thụ là người đạt giải thưởng Khôi Nguyên La Mã năm 1955 , được hội kiến trúc sư Pháp tặng Huy chương Vàng. Năm 1962 , ông là người châu Á hàng đầu trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện cấu trúc Hoa Kỳ ( H.F.A.I.A ) cùng với một số cấu trúc sư danh tiếng cùng thời của các nhà nước khác. Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật nhất là Đại Chủng Viện Đà Lạt ( tức Giáo Hoàng Học Viện Pio X ( 1957 ) , Dinh Đứng riêng ra ( 1961-1966 ) , Viện Đại học Huế ( 1961-1963 ) , Viện Nguyên Tử Đà Lạt ( 1962-1965 )… ngoài ra , ông còn chứng tỏ khả năng của mình trong lĩnh vực hội họa với bức tranh Thần Tốc và bộ tranh tổ quốc Cẩm Tú. Ông cũng có tài chơi các loại nhạc khí như: đàn tranh , đàn nguyệt và Sáo. Ông để lại hàng trăm bài thơ và bài viết. TS , KTS Ngô Viết Nam Sơn là nam tử thứ 5 của Ngô Viết Thụ , ông là tác giả của các công trình đề án quy hoạch xây dựng Phố Đông và hai giang biên Hoàng Phố ( Thượng Hải-TQ ); quy hoạch TT đô thị mới Filinvest ( Philippines ); TT Almaden Plaza , San Jose ( Mỹ ); TT huấn luyện phi công Florida ( Mỹ ) , quy hoạch TT khu đô thị Hà Nội Mới ; dự khán đề án mở mang làng ĐH của ĐH Washington tại Seattle và ĐH California tại San Francisco.... Từ năm 1995 đến nay , KTS Ngô Viết Nam sơn sống và làm việc lưu động tại nhiều nơi trên thế giới; và thời gian gần đây cốt tử là ở Bắc Mỹ và VN. . Nhà ở KTS Ngô Viết Thụ . KTS Ngô Viết Thụ là người đạt giải thưởng Khôi Nguyên La Mã năm 1955 , được hội kiến trúc sư Pháp tặng Huy chương Vàng. Năm 1962 , ông là người châu Á hàng đầu trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện cấu trúc Hoa Kỳ ( H.F.A.I.A ) cùng với một số cấu trúc sư danh tiếng cùng thời của các nhà nước khác. Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật nhất là Đại Chủng Viện Đà Lạt ( tức Giáo Hoàng Học Viện Pio X ( 1957 ) , Dinh Đứng riêng ra ( 1961-1966 ) , Viện Đại học Huế ( 1961-1963 ) , Viện Nguyên Tử Đà Lạt ( 1962-1965 )… ngoài ra , ông còn chứng tỏ khả năng của mình trong lĩnh vực hội họa với bức tranh Thần Tốc và bộ tranh tổ quốc Cẩm Tú. Ông cũng có tài chơi các loại nhạc khí như: đàn tranh , đàn nguyệt và Sáo. Ông để lại hàng trăm bài thơ và bài viết. TS , KTS Ngô Viết Nam Sơn là nam tử thứ 5 của Ngô Viết Thụ , ông là tác giả của các công trình đề án quy hoạch xây dựng Phố Đông và hai giang biên Hoàng Phố ( Thượng Hải-TQ ); quy hoạch TT đô thị mới Filinvest ( Philippines ); TT Almaden Plaza , San Jose ( Mỹ ); TT huấn luyện phi công Florida ( Mỹ ) , quy hoạch TT khu đô thị Hà Nội Mới ; dự khán đề án mở mang làng ĐH của ĐH Washington tại Seattle và ĐH California tại San Francisco.... Từ năm 1995 đến nay , KTS Ngô Viết Nam sơn sống và làm việc lưu động tại nhiều nơi trên thế giới; và thời gian gần đây cốt tử là ở Bắc Mỹ và VN.